Nhân khẩu Tây_Ban_Nha

Bài chi tiết: Nhân khẩu Tây Ban Nha
Thay đổi tháp dân số của Tây Ban Nha từ năm 1950 đến năm 2014

Viện Thống kê quốc gia ước tính dân số Tây Ban Nha đạt 46.507.760 người vào ngày 1 tháng 1 năm 2014,[131] trong đó 41.831.739 người có quốc tịch Tây Ban Nha và 4.676.022 người nước ngoài, chiếm 10,05%. Dân số Tây Ban Nha đạt đỉnh vào năm 2012, sau đó dân số suy giảm do có nhiều người nhập cư tại Tây Ban Nha đã hồi hương do tác động của khủng hoảng kinh tế và tài chính.[132]

Mật độ dân số của Tây Ban Nha là 92,16 người/km², thấp hơn so với hầu hết các quốc gia Tây Âu khác. Phân bổ dân cư trên toàn lãnh thổ rất không cân bằng, những nơi tập trung đông dân cư nhất nằm ven bờ biển, thung lũng sông Guadalquivir (và ở một mức độ thấp hơn là Ebro) và vùng đô thị của Madrid, trong khi phần nội lục còn lại rất thưa dân. Dân số Tây Ban Nha tăng hơn gấp đôi kể từ mức 18,6 triệu vào năm 1900, chủ yếu là do dân số bùng nổ trong thập niên 1960 và đầu thập niên 1970.[133]

Người Tây Ban Nha bản địa chiếm 88% tổng dân số Tây Ban Nha (2008). Sau khi tỷ suất sinh giảm sâu trong thập niên 1980 và tỷ lệ tăng trưởng dân số giảm, dân số Tây Ban Nha lại có chiều hướng gia tăng, ban đầu là do làn sóng hồi hương của những người Tây Ban Nha đã di cư sang các quốc gia châu Âu khác trong thập niên 1970, và gần đây là do lượng lớn người nhập cư. Người nhập cư tại Tây Ban Nha chủ yếu đến từ Mỹ Latinh, Bắc Phi, Đông Âu, và châu Phi hạ Sahara.[134]

Năm 2008, Tây Ban Nha cấp quyền công dân cho 84.170 người, hầu hết là người đến từ Ecuador, Colombia và Maroc.[135] Một tỷ lệ đáng kể cư dân ngoại quốc tại Tây Ban Nha đến từ các quốc gia Tây và Trung Âu khác, họ cư trú chủ yếu tại bờ biển Địa Trung Hải và quần đảo Baleares, nhiều người trong số đó chọn sống tại Tây Ban Nha để nghỉ hưu hoặc làm việc từ xa.

Có một lượng đáng kể hậu duệ của những người thực dân và di dân Tây Ban Nha tại các nơi khác trên thế giới, nhất là tại Mỹ Latinh. Từ cuối thế kỷ XV, có nhiều người thực dân Iberia đã định cư tại Mỹ Latinh và đến nay hầu hết người da trắng Mỹ Latinh có nguồn gốc Tây Ban Nha hoặc Bồ Đào Nha. Khoảng 240.000 người Tây Ban Nha di cư trong thế kỷ XVI, chủ yếu là đến PeruMexico.[136] Có thêm 450.000 người rời đi trong thế kỷ XVII.[137] Từ năm 1846 đến năm 1932 theo ước tính có gần 5 triệu người Tây Ban Nha di cư sang châu Mỹ, đặc biệt là sang ArgentinaBrasil.[138] Khoảng hai triệu người Tây Ban Nha di cư sang các quốc gia Tây Âu khác từ năm 1960 đến năm 1975. Trong cùng giai đoạn này, có thể 300.000 người đã sang Mỹ Latinh.[139]

Giáo dục quốc dân tại Tây Ban Nha được miễn phí và bắt buộc đối với thiếu niên từ sáu đến 16 tuổi. Hệ thống giáo dục hiện hành được quy định theo luật giáo dục năm 2006.[140] Năm 2014, luật giáo dục được sửa đổi một phần.[141] Từ năm 1970 đến năm 2014, Tây Ban Nha từng có bảy luật giáo dục khác nhau (LGE, LOECE, LODE, LOGSE, LOPEG, LOE và LOMCE).[142] Hệ thống y tế tại Tây Ban Nha được cho là thuộc vào hàng tốt nhất thế giới, đứng thứ bảy trong xếp hạng của Tổ chức Y tế thế giới vào năm 2000.[143] Chăm sóc y tế là lĩnh vực công cộng, phổ quát và miễn phí cho toàn thể công dân hợp pháp của Tây Ban Nha.[144]

Đô thị

Thành thị lớn nhất của Tây Ban Nha
Instituto Nacional de Estadística (INE)
HạngTênCộng đồng tự trịDân sốHạngTênCộng đồng tự trịDân số

Madrid

Barcelona
1MadridMadrid3.165.23511AlicanteValencia332.067
Valencia

Sevilla
2BarcelonaCataluña1.602.38612CórdobaAndalucía328.041
3ValenciaValencia786.42413ValladolidCastilla và León306.830
4SevillaAndalucía696.67614VigoGalicia294.997
5ZaragozaAragón666.05815GijónAsturias275.735
6MálagaAndalucía566.91316L'HospitaletCataluña253.518
7MurciaMurcia439,71217A CoruñaGalicia244.810
8PalmaQuần đảo Baleares399.09318Vitoria-GasteizXứ Basque242 092
9Las PalmasQuần đảo Canaria382.28319GranadaAndalucía237.540
10BilbaoXứ Basque347.57420ElcheValencia228.647
Các vùng đô thịPhân bổ địa lý dân số Tây Ban Nha vào năm 2008Sự biến đổi đô thị của Bilbao được ví như một hình mẫu về "thành phố thông minh".[145][146][147]

Nguồn: "Áreas urbanas +50", Bộ Công trình công cộng và Giao thông (2013)[148]

s • tl 
HạngVùng đô thịCộng đồng
tự trị
Dân số
Dữ liệu chính phủƯớc tính khác
1MadridMadrid6.052.2475,4 – 6,5 tr[149][150]
2BarcelonaCataluña5.030.6794,2 – 5,1 tr[149][151]
3ValenciaValencia1.551.5851,5 – 2,3 tr[152]
4SevillaAndalucía1.294.8671,2 – 1,3 tr
5MálagaAndalucía953.251
6BilbaoXứ Basque910.578
7OviedoGijónAvilésAsturias835.053
8ZaragozaAragón746.152
9AlicanteElcheValencia698.662
10MurciaMurcia643.854

Dân tộc

Hiến pháp 1978 công nhận một vài thực thể đương đại —dân tộc— và khu vực, trong bối cảnh quốc gia Tây Ban Nha. Tây Ban Nha trên thực tế là một nhà nước đa dân tộc.[153][154] Bản sắc Tây Ban Nha thay vào đó tích luỹ từ xếp tầng các bản sắc lãnh thổ và dân tộc-ngôn ngữ khác nhau thay vì một bản sắc Tây Ban Nha đơn nhất. Trong một số trường hợp, bản sắc lãnh thổ có thể xung đột với văn hoá chi phối Tây Ban Nha. Các bản sắc truyền thống riêng biệt của Tây Ban Nha gồm có người Basque, người Catalan, người Galicia, người Andalucía và người Valencia,[155] mặc dù vậy trong mức độ nhất định toàn bộ 17 cộng đồng tự trị có thể tuyên bố một bản sắc địa phương riêng biệt.

Tây Ban Nha có một số hậu duệ của cư dân đến từ các thuộc địa cũ, đặc biệt là Mỹ Latinh và Bắc Phi. Một lượng nhỏ di dân đến từ một vài quốc gia châu Phi hạ Sahara đến định cư tại Tây Ban Nha trong thời gian gần đây. Ngoài ra, còn có số lượng đáng kể các di dân châu Á, hầu hết là người gốc Trung Đông, Nam Á và Trung Quốc. Nhóm di dân lớn nhất là người châu Âu, với số lượng lớn nhất là người Romania, Anh, Đức, Pháp.[156] Người gitanos thuộc nhóm Di-gan bắt đầu đến Tây Ban Nha trong thế kỷ XVI; ước tính số người Di-gan tại Tây Ban Nha dao động từ 750.000 đến một triệu.[157][158][159][160][161] Trong quá khứ, người Do Thái Sephardi và người Morisco là các nhóm thiểu số chính có nguồn gốc tại Tây Ban Nha và có đóng góp cho văn hoá Tây Ban Nha.[162]

Theo chính phủ Tây Ban Nha, có 5,7 triệu cư dân nước ngoài sống tại Tây Ban Nha vào năm 2011, chiếm 12% tổng dân số. Theo dữ liệu cấp phép cư trú vào năm 2011, có trên 860.000 người Romania, khoảng 770.000 người Maroc, khoảng 390.000 người Anh, và 360.000 người Ecuador.[163] Các cộng đồng nước ngoài đông đảo khác là người Colombia, người Bolivia, người Đức, người Ý, người Bulgaria và người Hoa. Có trên 200.000 di dân từ châu Phi hạ Sahara sống tại Tây Ban Nha, chủ yếu là người Senegal và người Nigeria.[164] Khủng hoảng kinh tế kéo dài năm 2010-2011 kiến rất nhiều người nhập cư rời khỏi Tây Ban Nha do thiếu việc lam, chỉ riêng năm 2011 có trên nửa triệu người rời khỏi Tây Ban Nha.[165]

Ngôn ngữ

Bản đồ ngôn ngữ tại Tây Ban Nha (đơn giản hoá)

Tây Ban Nha là quốc gia đa ngôn ngữ công khai,[166] và hiến pháp quy định rằng quốc gia sẽ bảo vệ "toàn thể người Tây Ban Nha và các dân tộc của Tây Ban Nha trong việc thực thi nhân quyền, văn hoá và truyền thống, ngôn ngữ và các thể chế của họ.[167] Tiếng Tây Ban Nha (español) được công nhận chính thức trong hiến pháp với tên gọi tiếng Castilla (castellano), là ngôn ngữ chính thức của toàn thể quốc gia, và mọi người Tây Ban Nha có quyền và nghĩa vụ biết ngôn ngữ này. Hiến pháp cũng quy định rằng "mọi ngôn ngữ Tây Ban Nha khác" cũng sẽ có vị thế chính thức tại các cộng đồng tự trị tương ứng của chúng, phù hợp với các quy chế tự trị của địa phương, pháp luật cấp khu vực.[168]

Các ngôn ngữ có địa vị đồng chính thức cùng tiếng Tây Ban Nha là: Tiếng Basque (euskara) tại Xứ BasqueNavarra. Tiếng Catalan (català) có vị thế chính thức tại Cataluña, quần đảo Baleares, và tại Cộng đồng Valencia với tên gọi chính thức là tiếng Valencia (valencià). Tiếng Galicia (galego) có vị thế chính thức tại Galicia. Xét theo tỷ lệ tổng dân số, tiếng Basque được nói bởi 2%, Catalan/Valencia bởi 17%, và tiếng Galicia bởi 7%.[169] Tại Cataluña, tiếng Aran (aranés), một dạng địa phương của tiếng Occitan, được tuyên bố là ngôn ngữ đồng chính thức cùng với tiếng Catalan và tiếng Tây Ban Nha từ năm 2006. Các ngôn ngữ thiểu số Roman khác mặc dù không có địa vị chính thức, song được công nhận đặc biệt như nhóm Astur-Leon (Asturias – asturianu, còn gọi là bable – tại Asturias[170]León – llionés – tại Castilla và León) và tiếng Aragón (aragonés) tại Aragón. Tại thành phố tự trị Melilla trên bờ biển Bắc Phi, một phần đáng kể dân chúng nói tiếng Berber Riff. Tại các khu vực bờ biển Địa Trung Hải, tiếng Anh và tiếng Đức được nói rộng rãi bởi du khách, ngoại kiều và lao động du lịch.[171]

Tôn giáo

Tôn giáo tại Tây Ban Nha
Công giáo La Mã
  
70.2%
Không tôn giáo
  
25.0%
Đức tin khác
  
2.6%
Không trả lời
  
2.1%
Nguồn:[172]

Công giáo La Mã từ lâu đã là tôn giáo chính tại Tây Ban Nha, và mặc dù không còn có vị thế chính thức theo pháp luật, song trong toàn bộ các trường học công lập tại Tây Ban Nha học sinh sẽ lựa chọn một lớp tôn giáo hoặc dân tộc. Công giáo La Mã là tôn giáo được giảng dạy nhiều nhất, song việc giảng dạy về Hồi giáo,[173] Do Thái giáo,[174] và Tin Lành[175] cũng được pháp luật công nhận. Theo một nghiên cứu vào tháng 6 năm 2016 của Trung tâm Nghiên cứu Xã hội học Tây Ban Nha, có khoảng 68% người Tây Ban Nha tự xác định là tín đồ Công giáo La Mã, 2% tin theo các giáo phái khác, và khoảng 27% tự nhận là không tôn giáo. Hầu hết người Tây Ban Nha không thường xuyên tham dự các nghi thức tôn giáo. Nghiên cứu này cũng cho thấy rằng trong những người Tây Ban Nha tự xác định theo một tôn giáo, 59% hầu như không hoặc không bao giờ đến nhà thờ, 16% đi nhà thờ vài lần một năm, 9% đi vài lần mỗi tháng và 15% đi vào mọi Chủ nhật hoặc nhiều lần một tuần.[172] Các cuộc thăm dò và khảo sát gần đây cho thấy rằng những người vô thầnbất khả tri chiếm từ 20% đến 27% dân số Tây Ban Nha.[172][176][177] Tây Ban Nha cũng là quốc gia có số dân theo đạo Công giáo lớn thứ 4 châu Âu (sau Ý, PhápBa Lan).

Nhà thờ chính tòa Santiago de Compostela, A Coruña.

Mặc dù xã hội Tây Ban Nha trở nên thế tục hơn đáng kể trong những thập niên gần đây, song dòng di dân Mỹ La tinh có xu hướng hành đạo mạnh mẽ, do đó giúp Giáo hội Công giáo khôi phục. Có bốn giáo hoàng là người Tây Ban Nha: Dámaso I, Calixto III, Alejandro VIBenedicto XIII. Chủ nghĩa thần bí Tây Ban Nha là nguồn tri thức quan trọng để chống lại Tin Lành, do nữ tu cải cách Teresa thành Jesús dẫn đầu. Dòng Tên do Ignacio de LoyolaFrancisco Javier thành lập. Trong thập niên 1960, các tu sĩ Dòng Tên là Pedro ArrupeIgnacio Ellacuría nằm trong phong trào Thần học giải phóng.

Các giáo hội Tin Lành có khoảng 1,2 triệu thành viên.[178] Có khoảng 105.000 tín đồ Nhân chứng Jehovah. Giáo hội các Thánh hữu Ngày sau của Chúa Giê Su Ky Tô có khoảng 46.000 tín đồ trong 133 giáo đoàn khắp các vùng trong nước và có một đền thờ tại quận Moratalaz của Madrid.[179]

Một nghiên cứu của Liên hiệp các cộng đồng Hồi giáo Tây Ban Nha cho thấy có khoảng 1,7 triệu cư dân có nguồn gốc Hồi giáo sống tại Tây Ban Nha tính đến năm 2012, chiếm 3-4% tổng dân số Tây Ban Nha. Đại đa số là những di dân và hậu duệ của những người có nguồn gốc từ Maroc và các quốc gia châu Phi khác. Có trên 514.000 (30%) người trong số họ có quốc tịch Tây Ban Nha.[180]

Các làn sóng di dân gần đây kéo theo gia tăng số lượng các tín đồ Ấn Độ giáo, Phật giáo, Sikh giáo và Hồi giáo. Sau Reconquista vào năm 1492, người Hồi giáo không còn sống tại Tây Ban Nha trong nhiều thế kỷ. Đến cuối thế kỷ XIX, Tây Ban Nha bành trướng tại miền tây bắc châu Phi, và trao quyền công dân đầy đủ cho một số cư dân tại Maroc thuộc Tây Ban Nha và Tây Sahara. Do Thái giáo thực tế không tồn tại ở Tây Ban Nha từ sau sự kiện trục xuất vào năm 1492 cho đến thế kỷ XIX, sau đó người Do Thái lại được phép nhập cảnh. Hiện nay có khoảng 62.000 tín đồ Do Thái giáo tại Tây Ban Nha, hầu hết đến trong thế kỷ qua. Khoảng 80.000 người Do Thái được cho là sống ở Tây Ban Nha trước năm 1492.[181]

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Tây_Ban_Nha http://www.ucalgary.ca/applied_history/tutor/eurvo... http://www.airbus.com/en/presscentre/pressreleases... http://www.army-technology.com/features/feature129... http://www.bank-holidays.com/holidays_2007_58.htm http://www.britannica.com/EBchecked/topic/557573/S... http://www.channel4.com/history/microsites/H/histo... http://www.city-data.com/forum/attachments/weather... http://edition.cnn.com/2006/WORLD/europe/06/18/cat... http://www.demographia.com/db-worldua.pdf http://www.dw.com/en/spain-logs-record-number-of-t...